Nghe bài viết
|
Tựa
Cổ nhân thường khinh sự buôn là mạt nghệ, bởi vì người đời xưa trọng đạo đức mà khinh công lợi, thấy người buôn tham lợi vô yếm, ít có nói thực, sợ mất cái lòng đạo đức đi, vả lại đời xưa thủy bộ giao thông chưa tiện lợi lắm, tin tức chậm chạp, vận tải gian nan, buôn bán không được lợi lắm, cho nên thường khinh bỉ mà ít người chịu làm. Bây giờ phong khí mở rộng, hoàn cầu đi lại như một nhà, đường bộ thì có hỏa xa, đường thủy thì có hỏa thuyền, không chung thì có tầu bay, lại thêm điện báo để thông thư tín, điệm thoại để thông âm ngữ, tin tức đã mau, vận tải rất tiện, người mà thông thạo buôn bán thì làm giầu cũng dễ. Tục ngữ có câu rằng: “Phi thương bất phú”, các đại quốc do thông thương mà làm được phú cường, các nhà đại tư bản do kinh thương mà phú gia địch quốc, thế thì sự buôn cũng không nên câu nệ như xưa mà chẳng lưu tâm nghiên cứu, nhưng vi nước ta ngày trước học nho chỉ chí tại thi đỗ để ra làm quan, ngày nay học tây chỉ chí tại tốt nghiệp để ra làm việc, ít người chí làm thực nghiệp, hoặc có một bọn muốn làm nghề buôn, mà tư bản đã ít, học thức cũng kém, chỉ độ được mấy năm thì thất bại khánh tận ngay, ấy chỉ bởi tại không có thương học mà đến thế. Ôi ! sự buôn rất là phiền phức, nào tư bản, nào tính toán, nào sổ sách, nào thơ từ, nào mua hàng, nào bầy hàng, nào bán hàng, nào tính hàng, nào thương hiệu, thương tiêu, nào thương địa, thưng điếm, nào giao tế tiếp dẫn, nào quảng cáo, việc gì cũng phải có cơ quan, nếu không biết thương học đủ cả thương đức, thương tài thì không được. Tôi không phải là người biết buôn, chỉ nhặt lấy các sách quan hệ về sự buôn, lược dịch ra như sau này để độc giả chọn lấy mà xem cho biết sự thể tình hình, may ra nghề buôn nước ta có phát đạt hơn trước được chăng. Lại còn công ty, nhà băng, công ty hỏa xa, công ty hỏa thuyền, công ty bảo hiểm, quy mô cực kỳ rộng rã, chương trình cực kỳ tươm tất, ai mà có chí viễn đại, phải xem sách thương nhân bảo giám của Tàu, hay là sách buôn của Tây thêm vào rồi mới đủ.
Lương Văn Can
Tư bản
Tục ngữ rằng: “có bột mới gột nên hồ”, nếu không gạo mà muốn thổi cơm thì dẫu khéo cũng đố ai làm được, cho nên muốn buôn thì phải có tư bản, hoặc của một người, hoặc của hợp cổ, tùy nhiều ít mà lập thương điếm, buôn bán phải do tiểu chí đại, như có vốn một nghìn thì buôn độ 6,7 trăm, có vốn một vạn thì buôn hàng 6,7 ngàn, còn lưu lại vài phần để phòng khi ế ẩm thua lỗ mà bổ cứu thêm vào, nếu có đồng nào buôn hết đông ấy hoặc vay lãi nặng mà buôn, thì đến lúc ế lúc lỗ không lấy đâu mà duy trì, tất đến nỗi phá sản khánh tận; nói tóm lại người sinh ở đời tất phải học biết một nghề, đời bây giờ không nên khinh nghề buôn, mà nghề buôn tất phải có tư bản, tư bản tất phải dự bị làm soa cho chắc chắn, còn như không biết mà làm liều, thời là thằng còng làm cho thằng ngay ăn, tất là hữu lao nhi vô công, nhà kinh thương không nên làm vậy.
Tổ chức sự buôn
Một người làm riêng thời là cá nhân thương nghiệp, năm ba người hợp vốn với nhau, làm tờ hợp đồng giao ước, người suất nhiều, người suất ít cũng được, giao một hai người quản lý buôn bán lỗ lãi cùng chịu, thế là hợp tư thương nghiệp, còn như cổ phần công tu thì có nhiều hạng: một rằng hữu hạn công ty, nghĩa là bẩy người dĩ thượng hợp cổ mấy phần mẫy ngàn lập định trương trình bầu trong cổ phần hai người hoặc hai, ba người dĩ thượng quản cố buôn bán như có thua lỗ công nợ, thì cứ cổ phần bấy nhiêu chia ra đến hết thì thôi; hai rằng vô hạn công ty, nghĩa là trương trình cũng giống như công ty hữu hạn, duy đến lúc thua lỗ công nợ đem hết cổ phần đền rồi mà còn chưa xong thời chủ nợ có phép đòi những người đồng sự được nữa; lại có hạng rằng lưỡng hợp công ty, nghĩa là lấy một hạng cổ phần trách nhiệm hữu hạn với một hạng cổ phần trách nhiệm vô hạn hợp lại làm một công ty, người vô hạn có quyền thay mặt công ty mà coi việc có lợi hoa hồng một phần riêng, như có công nợ thì người hữu hạn chỉ mất bấy nhiêu cổ phần đã xuất trước đấy thôi, còn bao nhiêu trách nhiệm về người vô hạn phải chịu cả. Thương điếm nào cũng phải trình tòa chấp chiếu[1]. Nhà buôn bán có bạc thực bạc giả, bạc thực nặng 7 đồng 3 phân, tiếng với sắc cùng tốt cả; hoặc nhẹ kém hoặc ngắn tiếng, hoặc mất tiếng, hoặc sắc đen thời là bạc giả lẫn đồng lẫn kẽm. Phép xem bạc đồng phải mỗi ngày lấy vài mươi đồng bạc thật, hai tay gõ đi dõ lại nghe tiếng giài hay ngắn, xem chất nặng hay nhẹ, độ hơn một tháng tập quen rồi, tự nhiên biết được thực hay giả. Phép xem bạc hào: lấy hào bạc để vào trong miệng cắn hễ thấy mềm và có ngấn, hoặc để ở trong tay, lấy tay bấm vào, thấy lộ sắc đen ra, thế đều là giả cả, bạc giấy cũng có thật có giả, giấy giả thời chính phủ tất có yết thị, nhà băng với nhật trình tất có cáo bạch, nhà buôn cũng nên lưu tâm.
Tính toán
Cổ nhân dậy người có sáu nghề là: lễ, nhạc, sạ, ngự, thư, số, làm việc gì cũng phải biết tính, mà làm nghề buôn thì lại càng nên học tính, có tính thì mới suy hơn quản thiệt, mới biết số xuất nhập bao nhiêu, mới biết số lỗ lãi là bao nhiêu. Tính có hai phép đời xưa châu toán la hạ bàn tính mà tính, đời nay bút toán là lấy bút biên mà tính, cũng chẳng ngoại cộng, trừ, nhân, chia bốn phép tính ít thì dùng châu toàn, nhiều thì dùng bút toán, tựu trung bút toán tiện hơn châu toán; tính toán rất là linh tinh phiền phức lắm. Muốn cho phép tính tinh thông, thời phải tìm thầy chuyên môn mà học, nếu không biết tính, thời hoặc tự mình nhầm nhật, hoặc bị người giối lừa, sự buôn bán hẳn không thành lập phát đạt được, đã học tính rồi lại phải ở nhà hàng tập tự mấy năm, để lịch duyệt cho quen, thời tính toán mới thực là thông thạo hơn người.
Sổ sách
Nhà buôn phải có sổ sách ở trong để biết buôn bán lỗ lãi thế nào, ở ngoài để biết người ta công nợ thế nào, sổ sách hồ đồ thời lãi không biết, lỗ không hay, ở trong thương trường tất không chiếm được địa vị ưu thắng. Sổ sách cứ tùy quy mô thương nghiệp lớn nhỏ mà định nhiều ít, đại khái chia làm 6 loại:
Lập cái sổ biên tổng số mỗi ngày hiện kim thu nhập với chi xuất bao nhiêu. Như xuất nhập nhiều lắm thời phải mỗi ngày mua bán xong rồi kết tính ngay đi, khiến cho số xuất với số nhập đúng nhau mới được. Số nhập như tiền bán hàng, tiền người ta giả nợ, số xuất như tiền mua hàng, tiền thuê nhà, tiền ăn uống, tiền công, tiền đèn, tiền bảo hiểm, tiền tiêu vặt, v.v.., thế là một.
Lập cái sổ biên mỗi ngày bán được bao nhiêu, hàng hóa bán thì thời phải biên ngay, đừng bảo rằng để lát nữa rồi hãy biên thời hoặc bận, hoặc quyên tất có nhầm sót thế là hai.
Đến nửa năm hoặc cuối năm hợp tính hết cả sổ mỗi ngày bán được bao nhiêu, lập cái sổ biên vào một chỗ thế là ba. Sổ thứ hai với thứ ba là một loại;
Lập cái sổ biên mỗi ngày mua hàng gì của nhà nào, bao nhiêu tiền, bao nhiêu kiện, hoặc tiền ngay hoặc mua chịu, thế là bốn.
Đến nửa năm hoặc cuối năm tính hết cả sổ, mỗi ngày mua vào bao nhiêu biên vào một chỗ, thế là năm. Sổ thứ tư với thứ năm là một loại.
Đến lúc kết tính, kết sổ thứ nhất, lấy số thu trừ số chi thời biết ngay thực số tiền bạc còn bao nhiêu. Kết sổ thứ hai, thứ ba lấy số hàng mua so với số hàng hóa thời biết ngay thực số hàng còn bao nhiêu. Kết sổ thứ tư với thứ năm so xem thu phó với các nhà thế nào thời biết được thực số mình nợ người hay người nợ mình.
Lúc kết tính hàng còn lại không nên cứ sổ biên mà ấn định ngay, bởi vì hàng hóa hoặc có hư hại thiếu mất, vậy phải lập một cái sổ biên ra từng thứ mới được. Như lúc mua với lúc tính mà giá rẻ hơn, thời cứ giá rất rẻ mà tính, như lúc mua với lúc tính mà giá rẻ hơn, thời cứ giá rất rẻ mà tính, như giá cao hơn thời cũng cứ giá lúc mua mà tính mới phải, đồ dùng còn lại cũng phải triết giá đi. Chữ biên số mục tiền bạc hàng hóa với ngày tháng, như chữ một, hai, ba bốn, trăm, nghìn, vạn, ức phải viết cho cẩn thận chớ có nhầm nhặt hồ đồ. Giấy quyển sổ bao nhiêu tờ phải đánh số từng tờ một.
Trong thương luật có định lệ rằng: Sổ buôn phải giữ lại trong mười năm để phòng khi tra xét.
Thơ từ
Nhà buôn công việc rất là phiền tạp, tình hình mua bán chỉ một chớp mắt đã khác hẳn rồi, xứ nọ với xứ kia khác nhau, muốn thông tin tức đánh giây thép cũng chóng mà tốn nhiều tiền, phải có thư tín gửi đi thời phí ít mà tường tận hơn, thứ gì vội thì đánh giây thép trước rồi gửi thơ tiếp sau, bình nhật nếu không luyện tập cách viết thư thời lâm thời chẳng khỏi khốn nạn, viết thơ không nên cầu kỳ giài quá, làm sao cho giản dị minh bạnh trang nhã gãy gọn để người xem dễ hiểu vui lòng mà không phí thì giờ thế là đệ nhất.
Cách viết thơ, đoạn đầu dùng vài câu thông thường thăm viếng như câu khát vọng tôn nhau, câu kính thăm quý thể quí quyến bình yên vạn phúc v.v… đoạn giữa kể đầu đuôi sự buôn bán cho tường tận, mấy câu đầu là thư gửi cho người lần thứ nhất thì viết thế, còn như người đã thường thường gửi thì viết tắt ngay nói sự buôn bán đoạn dưới dùng vài câu chúc tụng cho tiện cho chóng, câu chúc rằng: “ mấy lời vắn tắt kính chúc đinh tài lưỡng vượng” hoặc rằng: đương khi giai tiết kính chúc tằng phúc tăng thọ v.v …
Thư tín gửi người ta mua đồ gì nên viết số nhất, nhì, tam hoặc trong một thứ hàng mà có nhiều hạng, lại phải biên số giáp, ất, bính, đinh vào để cho người nhận thơ trông thấy và đến lúc giả nhời cũng dễ chiếu số đáp lại, không đến nỗi díu dít nhầm nhật, ngày tháng phát thơ đi, hoặc dùng lịch ta, hoặc dùng lịch tây cũng nên biên rõ, hoặc hai lịch đối chiếu biên cả thời càng tốt, hoặc thơ từ thường thường gửi cho một người, thời biên số đệ nhất, đệ nhị để tiện ngày sau tra xét, ngoài phong bì thơ gửi đến chỗ nào, rao cho người nào, dán tem thế nào, cũng phải chiếu lệ cho chu tất, thư thường bỏ thùng, thư trọng yếu thì gửi recommande cho chắc chắn.
Mua hàng
Các thứ hàng buôn có thứ sinh hóa như động vật, thực vật, khoáng vật là của giới tự nhiên, lại là nguyên liệu phầm có thứ thực hóa là của nhân công làm ra gọi là chế tạo phẩm. Người buôn nên chú ý xem sét có bẩy điểm: 1. Xem phong tục các xứ quen mua cần dùng những vật gì mà buôn thời người mới chịu mua mà hàng mới bán chạy. 2. Xem chỗ sản xuất ở đâu với ngạch sản xuất được bao nhiêu thời lúc buôn mới khỏi thua lỗ. 3. Xem chỗ bán ở đâu và người buôn bán bao nhiêu thời mới biết đường tiêu thụ; 4. Biết chỗ sản xuất với chỗ buôn bán thời mới được lượi mà khỏi lỗ; 5. Biết chỗ sản xuất với chỗ buôn bán vận tải thuế ngạch bao nhiêu thì mới định được giá cao hạ; 6. Biết cách chang chải với giữ gìn thời mới khỏi hư hại; 7. Biết phép chế tạo với phép xem hàng thời lúc mua mới khỏi người lừa giối, đó là nhà buôn nên lưu ý vậy.
Giá hàng buôn bán có thứ lúc lên lúc xuông, có thứ không lúc nào lên xuống, người buôn phải biết, nếu hay đương lúc chửa lên xuống mà dự phòng đi trước, hoặc thừa cơ mà mua lấy thời được lợi hẳn nhiều, nhược bằng sự cơ đã đến, tình hình đã rõ rồi mới mua mới bán thời đến thua lỗ, cái ý có ba nhẽ lược kể ra như sau này. Phong tục xa hay kiệm, khí hậu rét hay ấm đã không giống nhau thời cái đồ nhu dụng cũng phải khác nhau, như đồ vật chế tạo, vì các chỗ nguyên liệu hoặc nhiều hoặc ít, nhân công hoặc cao hoặc hạ, không giống nhau cả, thời đồ sản xuất hẳn giá cũng khác nhau, lại như vậy sản chỗ này vận sang chỗ khác, đường đi có xa có gần, vận tải thuế ngạch có nhiều ít, thời giá cũng khác nhau, đó là khác đất mà khác giá vậy, ấy là một. Vật phẩm không có định giá chỉ nhân cung cầu nhiều ít thế nào, như số cung mà nhiều hơn số cầu thì giá tự nhiên rẻ, số cầu nhiều hơn số cung, thì giá tự nhiên đắt; tức như của nông sản năm được mùa thời sản nhiều mà giá hạ, năm mất mùa thời sản ít mà giá cao, lại như đồ cổ với đồ thư họa, thường không có nhiều, người hiếu thượng cũng không nhất định, nếu của ít mà nhiều người mua thời giá cao vọt lên, ít người muốn mua thì giá ngay xuống, đó là nhân cung, cầu quá nhiều, quá ít mà khác giá vậy ấy là hai. Lấy vật này đổi vật kia, giá phải tương đang, như tiền bạc nhiều mà đồ vật ít, thì giá đồ vật cao như đồ vật nhiều mà tiền bạc ít thời gí đồ vật hạ, người buôn phải điều tra cho kỹ mà bán ấy là ba. Mua hàng bán hàng là cái quan hệ về sự lỗ lãi của nhà buôn, phải nên cẩn thận, đại khái lúc mua hàng phải chủ ý có ba việc, mua nên cầu cho hạ bởi vì mua được giá rẻ thời bán dẫu hơi rẻ mà được lời cũng khá; nên mua của tốt, bởi vì của tốt dễ bán mà chóng hết, vả lại để lâu cũng không việc gì, như của xấu dẫu rẻ cũng không nên mua, nếu của xấu mà người chậm mua thì tổn hại ngay, xét xem đường tiêu thụ chậm chóng thế nào, để liệu mà buôn, vả lại đồ gì cũng không nên buôn nhiều quá bởi lúc buôn thì dễ lúc bán thì khó, mà bán mãi chưa hết, cũng không khỏi đọng vốn lại, đến như bán hàng hễ thấy có lãi thời bán, không nên cầu giá cao, nếu cao quá thời khách hiềm rằng đắt mà mua ít, hoặc là người ta thấy lợi nhiều mà buôn tranh, thời mình cũng không chuyên lợi được.
Người ta kinh thương cốt cầu được lợi, ai ai cũng có hi vọng thế cả, mà kinh thương có hai phái, một là hằng nghiệp, hai là đầu cơ, phải hằng nghiệp thời lợi ít mà ổn thỏa, phái đầu cơ thời lợi to mà nguy hiểm. Phái hằng nghiệp là biết nghề gì thời buôn nghề ấy, không có khinh thị lợi nhỏ, không có mê hoặc nghề khác, trong thân cứ giữ một nghệ cũng đủ sung túc, trong một nhà những người trung nhân dĩ thượng ai ai cũng làm được cả; phái đầu cơ thời khác thế, nghề nghiệp vốn không nhất định, nghề gì cũng chưa kinh nghiệm, chỉ tùy tình hình chỗ thị trường mà lợi dụng thời cơ, quyền lỗ lãi toàn phó cho thời vận, may ra thời bốc được thiên vạn kim, chẳng may ra thời khuynh gia bại sản, phái ấy rất là nguy hiểm, không có đại tài thời không làm được. Phái đầu cơ có hai tư cách, một là thiên tài hai là nhân lực, như có nhân lực tinh sáng biết chắc rằng thời cơ sắp đến mà làm, có can đảm mạnh bạo giám hết sức thừa cơ mà làm, có tâm tư hoạt bát, biết cơ hội biến hóa vô cùng, mà cẩn thận chu toàn, không đến nỗi vứt tiền vào chỗ vô dụng, cơ hội chỉ tại phút chốc, trì nghi một ý cũng không còn, phải có thủ đoạn ứng phó lập tức mới được. Bốn điều ấy thuộc về thiên tài, nhà nghèo không có tư bản thời dẫu gặp được cơ hội cũng không có của mà làm, một điều ấy thuộc về nhân lực.
Thương hiệu
Hiệu buôn hoặc dùng tên mình, hoặc đặt chữ mới định, rồi đem trình chính phủ, dấu hiệu làm vuông, hoặc làm hình bồ dục, hình tròn cũng tùy ý, ở một phố cũng buôn một nghề, đặt hiệu không được trùng nhau.
Thương tiêu
Tiêu biểu nhà buôn cheo ở trước cửa hàng, hoặc cheo ở trước cửa, hoặc cheo ở trên mái nhà trước cửa, cốt để cho khách đi lại trông thấy ngoạn mục mà muốn mua hàng, phải mượn thợ khéo làm cho thật lạ, thật tốt thì mới chiêu được nhiều khách. Thương tiếu các hiệu bên Âu mỹ nghìn hình muôn trạng, không khéo không kể xiết được, nước ta thương tiêu làm con gà, con ngan, con hươu, con trâu cheo ở trước cửa những cũng ít nhà chịu làm thực là một điều khuyết điểm.
Thương địa
Đất mở của hàng cứ cỗ đô hội đông đúc, bến tầu rộng rãi, chỗ làng nước to lớn, phải xem đường giao thông thế nào, khí hậu nhiệt thế nào, thuế lệ thế nào, sản xuất thế nào, tiêu thụ thế nào, phải lấy con mắt tinh đời mà quan sát.
Thương điếm
Chỗ nhà bán hàng như đồ nhật dụng thường phẩm, nên ở chỗ đông người, chỗ có các ga xe hỏa, chỗ khách đi nghỉ chân, chỗ phố rộng mà thẳng, cong như bán đồ cổ đồ sứ với bán sách, thời nên chọn chỗ năm ba nhà đồng nghiệp mà ở bởi vì những đồ ấy mỗi thứ mỗi khác, khó buôn được đủ, khác mua cũng muốn xem qua mấy hàng mà kén chọn, nếu mình ở riêng một chỗ, thời khác vị tất đã chịu bỏ chỗ nhiều mà đến chỗ ít, người kinh thương cũng nên biết thế.
Bầy hàng
Nhà buôn bầy hàng phải để chỗ lưu thông, để khách tiện đi lại ra vào, trang sức cửa sổ phải nên dùng kính lớn, dẫu có tốn tiền hơn, những cái bóng đối chiếu cái bóng phản chiếu một thứ hàng, thành ra hai ba thứ hàng, khách trông thấy ngoạn mục mà muốn mua, cũng bù lại cái tốn ấy.
Người ta trông các thứ hàng hóa thường có cảm giác đến trong tân tính, trông xắc xanh, xắc tím thời cảm xúc đến tình ưu uất, trông xắc lục xắc tím nhạt thì ôn hòa, trông xắc trắng thì thanh khiết, trông xắc đen thì nghiêm túc. Người cao thượng thì thích xắc trắng nhạt, người phác dxa thì thích xắc hồng xắc lục, các xắc ngày với đêm, biến đổi khác nhau, như xắc vàng đêm hóa ra trắng, xắc trắng thì đêm hóa ra vàng, xắc xanh thì đêm hóa ra hơi đen, xắt tím thì hóa ra toàn đen, chỉ có xắc đỏ là đêm không biến hóa, bầy hàng nên điều hòa, các xắc bầy cho khéo để khách trông thấy mà không ưu uất, lại phải độ vài chủ nhật xửa xang bầy lại một lần, cho trông như hàng mới.
Bán hàng
Chủ bán hàng không nên ngại phiền, cứ của thật giá thật mà bán, tha hồ khác mua kén chọn thế nào bới trác thế nào cũng nên nhẫn nại chịu phiền nói hòa nhã, hoặc là khác chưa biết nội dung tốt xấu thế nào, cũng nói rõ chỉ bảo cho khác minh bạch rồi sẽ thôi. Nếu khác thấy phiền toái mà sinh oán, lầm rầm nói nọ nói kia thời lần ấy dẫu bán được mà lần sau khác hẳn không muốn đến nữa, cho nên phải nhan sắc vui vẻ tiếp đãi ân cần, vô luận mua được hay không, dẫu năm lần bẩy lần vẫn cứ tình nghĩa như cũ, thời dẫu lần trước không mua được mà lần sau hẳng muốn đến hàng mà mua.
Quảng cáo
Ở đời văn minh bây giờ năm châu giao thông, thương chiến rất là kịch liệt, mình lập ra một nơi thương điếm hóa chất dẫu tốt, hóa giá dẫu rẻ nhưng người biết mà đến mau, chẳng qua chỉ mấy người ở gần đó, còn người ngoài một tỉnh một xứ vị tất đã biết, người ở ngoại quốc vị tất đã biết, muốn khiến cho tiêu thụ càng ngày càng rộng rãi, thương nghiệp càng ngày càng khoáng trương, hẳn phải có giấy cáo bạch mới được. Tây nhân có nói rằng: Nghề buôn bán có nhời quảng cáo thì mới đắt hàng, cũng như đồ máy phải có dầu trơn hơi nóng thì máy mới chạy được. Thực thế, ngày nhà buôn Âu mỹ trong tràng học có khoa dậy làm văn quảng cáo, trong thương điếm có hội tập làm bài quảng cáo, cứ như thành Nữu Ước nước Mỹ điều tra một năm phí tổn về tiền quảng cáo đến mười ức Mỹ kim, thành Luân Đôn nước Anh điều tra một năm phí tổn về tiền quảng cáo đến nghìn vạn Anh kim.
Người ta biết rằng quảng cáo có năng lực vạn phần, dẫu tốn tiền mà không tiếc. Quảng cáo có nhiều cách, hoặc kể những thứ hàng gì mà đăng vào nhật trình tập chí, hoặc in vào quyển sách hoặc in từng tờ giấy, hoặc vẽ kiểu hàng in vào sách, mà gửi phát khắp mọi nơi, lại còn cách nọ cách kia kể không xiết hết, đều là muốn cho ai cũng biết mình có hàng mà lại mua, người ta dụng công cáo bạch như thế, cho nên thương nghiệp phát đạt hơn cả hoàn cầu, còn như nước ra thì thế nào? Mấy năm nay thương giới không phải là không có tiến bộ, nhưng mà xem cách thành phố của ngoại hóa thì tiêu thụ nhiều hơn, của nội hóa thì tiêu thụ ít kém, người nước mình lại có tính quý ngoại hóa mà khinh nội hóa, nhà buôn mình lại ít thương đức thương tài lại ít làm quảng cáo, nhẽ nào thương nghiệp chẳng suy lạc kém người. Quốc dân ôi ! đồng bào ôi ! đứng trong thương trường, nghĩ sao cho chiếm được địa vị ưu thắng, đừng để người ngoài cười rằng ta không biết kinh thương.
Giao tế tiếp dẫn
Khách mua không cứ mua nhiều mua ít, người nghèo người giầu, chủ bán hàng phải một loạt tiếp đãi lấy thái độ rõ ràng khiêm tốn mà hoan nghênh, không nên có một tý trễ nải khinh nhờn, càng phải trừ cái bụng thế lợi, không nên sử mấy người mua ít thời có dáng khinh bạc, người mua nhiều thì có dáng xiểm nịnh, phải biết rằng thứ này mua ít thứ sau vị tất chẳng mua nhiều, đến cả những người không mua gì, cũng nên tiếp đãi tử tế, thì khách ai cũng vui lòng, lúc khác mua nhiều cũng chửa biết đâu.
Người đời thường bảo nhà buôn sử với khách mua bề ngoài thân thiết mà trong bụng vị tất đã thành thực, cho nên dẫu thân thiết thế nào khác cũng coi làm thường, lại bảo là cái thói hàng chợ, thế là bởi bán hàng chưa được thành thực, chưa cảm động được người ta, đại phàm thành thực là đồ hàng tốt hay xấu, giá hàng cao hay hạ, hoặc có rách vết gì, đều bảo rõ cho khách biết, như khách có muốn đổi chác gì, cũng chiều ý mà đổi, thế mới rõ là thành thực. Nước Mỹ có ông Lâm Khẳng làm người bán hàng ở nhà buôn; một ngày kia có khách đàn bà vào mua hàng, tính giá mười đồng sáu hào, đến đêm tính lại nhầm mất bốn hào, ông lập tức đem giả. Ôi ! như bốn hào ấy, người đàn bà cũng không tổn thất bao nhiêu, mà tứ tốc đem giả, không ngại tối không ngại xa, thế mới rõ thành thực, ông có đức tốt như thế, sau cả nước tin phục, bầu lên làm tổng thống cả nước Mỹ. Lại như khác mua hàng rồi, mà lựa chọn, thời chủ bán hàng nên khẩn thiết thành thực quyết đoán cái tốt cái xấu, chớ có khuyên khác mua nhiều, để khách sinh nghi, chả khác gì hạ cái lịnh trục khách, lại như khác ngẫu nhiên cầm một thứ gì, hỏi rằng nhà hàng có hay không, phỏng như trong nhà không còn thời nên đáp ngay rằng không, chớ có nói khéo rằng cũng có thứ khác giống thứ ấy, mà khuyên khách mua, thì cũng không phải là đạo thành thực vậy.
Khi xưa chính sách nhà buôn thường hay nói dối, chủ bán thì cố ý nói thách, chủ mua thì cố ý giả rẻ, hai bên cò kè bớt một thêm hai, mới xong được giá, đã là phí mất thì giờ; lại có lệ hàng hóa đã đưa ra khỏi cửa rồi, thời dẫu không tổn hại, cũng không được đổi lại, cái chính sách ấy thật không hợp với tình lý thương học rất là nên đổi, lâu nay năm châu giao thông, sách thông thương dần dần đổi mới, chiểu đãi khác cực kỳ khiêm hòa, khai giá nhất định bán cho ai cũng một giá, khác không phải mất công mặc cả, hàng đem khỏi cửa mà không tổn hại, dẫu không giả lại thì cũng được đổi lấy thứ khác, sử với khác mua chu đáo biết là chừng nào, chính sách ấy lúc mới làm cũng có tổn thất một chút, nhưng mà sau được khách vui lòng mua bán mãi mãi cũng bổ cứu lại được, đời bây giờ cũng cần làm chính sách ấy cả, người kinh thương cũng nên biết vậy.
Nghề buôn dẫu là sự nhỏ, cũng nên biết tâm lý loài người mà lợi dụng để buôn bán, khách đến cửa hàng mua thức gì, người bán hàng biết ý lại tiếp đãi tử tế ngay thời thêm được hứng thú khách mua, tức như nhà bán đồ vàng, gập khách thấy cái vòng tay hình như ưng ý, thời người bán hàng để cái vòng vào tay khác cho thêm hứng thú khách mua lại như khách đến hàng vải hỏi giá, thời người bán vải lấy ngay vải dải ra cho khách xem, thế đều là lợi dụng tâm lý để kiến cái bụng khách muốn mua vậy, đến như nói chuyện với khách không nên nhiều lời quá cho khách sinh nghi, sinh chán, chỉ nên lựa ý khách mà nói sao cho khách tin mình thì thôi.
Người buôn bán ai cũng muốn phát đạt mà không tập cách chiêu khách, thật là rất ngu, nên biết rằng người ta không phải là mộc thạch, ai cũng ưa tiếp đãi tử tế, nếu bán hàng mà tiếp khách nhạt nhẽo thì ai còn muốn mua, hẳn phải đối với khác chu toàn thân thiết cho thêm bụng khách vui, khách tin một lần như thế đến sau dẫu xa mấy dặm, khách cũng tìm đến mà không ngại, vả lại vì mình giới thiệu với người khác lại mua nữa, ấy thực là cái tờ cáo bạch vô hình vô hạn, chẳng tốn công mấy là được ích nhiều, người kinh thương không nên coi lấy làm khinh.
Tiếp người hẳn phải nói chuyện, mà nhà buôn cần phải nói chuyện, phàm ngồi chơ với người, chưa nói câu gì, mình phải nên tìm chuyện ra, mà nói hoặc hỏi thăm, hoặc nói thời cảnh, mới có ý ân cần trịnh trọng. Nhưng nói chuyện cốt phải nhan sắc khiêm hòa, nói năng chính trực mới là chính nhân quân tử, không nên khinh nhờn, dối dá, nói xấu chuyện người, đến như tiếp khách đàn bà, càng phải hình giáng chỉnh tề, ngôn từ nghiêm chỉnh, chớ nên nói nói cười cười bỡn cợt ngất ngưởng, để người ngoài trông thấy cười rằng nhà hàng không có phép tắc, hoặc là gặp người đàn bà chưa ngoa nói lại, thời thể diện mình còn ra gì nữa, cho nên bọn thanh niên học buôn cũng phải luyện tập nói năng cho phải nhời mới được.
Chiêu khách phải có lễ mạo, như có khách đến hàng, phải đứng dậy hoan nghênh, khách hỏi giá rồi, bất luận có mua hay không, tiếp đãi cũng không nên trước khác sau khác, thường có khách đến hỏi giá rồi đi ngay một chốc lại đến, thế mới thực là khách mua, không nên nhạt nhẽo để người ta giận.
Nhà hàng các nước có lễ, đưa đón khách cực kỳ cung kính, ấy thực là chiêu khác, đại khái khách lại dẫu bất tất ra rước mà lúc đi cũng nên tiễn ra vui vẻ, cũng như anh rm bạn lúc từ biệt bắt tay ân cần, mong được ngày khác lại đến, phỏng như mình đương tiếp khác, có khách khác đến, phải gọi người ra tiếp, không thể thời được lòng người nọ mất lòng người kia, người ta không vui mà đi, không phép dì mà mời lại được nữa, còn như cử chỉ cũng phải phấn chấn, tinh thần không nên trễ nải, như ngáp vặt, vươn vai, hoặc phục xuống bàn mà nói chuyện, đều là phi lễ mà bất kính ai cũng không ưa, người bán hàng nên lưu ý.
Người gian thiên phương bách kế khéo đánh lừa người, rất là khó giữ, cho nên có khách đến hàng lạ mặt tất phải hỏi qua mua gì đấy, lại phải hỏi người cùng đi mấy khách, như bảo là người cùng bọn thì không hề gì, nếu chủ nhà tiếc nhời không hỏi, hẳn đến nhỡ việc, thường có đứa gian lộn sòng theo khách vào, chủ tưởng là người bọn khác, khách tưởng là người chủ nhà, hai bên cũng không biết thực giả, rồi sau bị nó ăn cắp đi mất, cho nên ngồi hàng phải nên dự phòng mới được.
Bán hàng tiền ngay dẫu ít lãi cũng nên bán, còn người mua chịu thời phải xem căn cước chắc chắn rồi sẽ bán, mà cũng chỉ cho chịu ít thôi, nếu tham lãi nhiều mà bán liều, thời lần trước may ra khỏi mất, đến lần sau chịu nhiều chắc không giản nữa; bởi vì đời giờ người ta đã ít giáo dục, lại gặp buổi phong tục kiên bạc, ít người giữ được tín nghĩa, cho nên buôn bán giữ gìn phải cho cẩn thận, người ta để thân ở trong trường giao tế tiếp đãi với người xã hội phải có cái mắt tinh đời mới được. Nước Mỹ có ông Ngọa Nhĩ Canh là người cự phách ở trong đám thương giới, hai con mắt sắc như mắt vọ, có người nào đến trước mắt thời ông ta mắt nhìn trong trọc không trông đâu không chớp mắt, nhìn mãi không thôi, rồi người ta thiện hay ác như in vào trong óc không sai người nào, bởi thế khéo biết dùng người làm nên một nhà cự phú, nhỡn lực có quan hệ đến sự buôn như thế, cũng ít người làn được như ông ấy. Nếu cứ như ông Mạnh Tử “ thỉnh kỳ ngôn ngữ, quan kỳ mẫu tử” nghĩa là nghe nhời nói phải hay trái, trông con mắt ngay hay gian thế là phép xem đại khái, đức Khổng tử rằng: thị sở dĩ, quan sở do, sát sở an, nghĩa là trông người ta làm việc gì, xem nguyên do tại sao mà làm, lại xét xem trong bụng có đành làm không, thế là các xem kỹ. Hợp hai phép ấy thời người hay người dở thập phần minh bạch, nhỡ quang dần dần cũng được như ông Nhĩ Canh mà không khó.
Người ta phải có dự bị mới hay nên việc, nay thế gian có một thứ người nghèo, hâm mộ người giầu, giận mình không được địa vị ấy, bảo anh kia đương vận minh khá, gập cơ hội tốt mới được đến thế, không biết rằng người ta ở đời ngày nào là chẳng có cơ hội tốt ở trước mắt mà người không tranh lấy được, là bởi không có công phu dự bị mà thôi, như muốn làm người coi sổ sách nha môn nhớn thì phải tinh thông phép tính, muốn làm người quản lý xưởng thợ nhớn thì phải nghiên cứu công việc, không thế thời dẫu có cơ hội người ta đón đi coi sổ sách, đi làm quản lý mà sức mình không thể kham được, chỉ than thở số mình không tốt, không được như người gập vận làm giàu, có ích gì đâu, bọn thanh niên ta muốn kinh thương phải có học hành dự bị cho đủ gặp thời, tranh lấy cơ hội chớ nên hư phí thì giờ để đến nỗi lâm sự hồ đồ chẳng nên được công việc gì, hối sao kịp nữa.
Cổ thi rằng: nhất thốn quang âm, nhất thốn cảm, thốn câm nạn mãi thốn quang âm, nghĩa là thì giờ quý báu hơn vàng người ta nên quý thì giờ, đi học phải thế, làm thợ phải thế, mà đi buôn cũng phải thế. Nhật bản có một câu thí dụ rằng: thì giờ là cái giấy bạc giời sinh ra, người có giấy bạc thời đến nhà băng mà lấy được bạc, cũng như người biết chứa để thì giờ thời đến khắp thế giới mà lấy được bạc, vả lại giấy bạc viết nhất định rằng một nguyên, trăm nguyên nghìn nguyên còn là có hạn, đến như thì giờ không có nhất định là mấy trăm mấy nghìn, tùy tài người ta muốn lấy bao nhiêu cũng được, người hay quý thì giờ như cái giấy bạc vô hạn, hết sức dành dập thế thì thành được đại phú. Câu thí dụ ấy ý rất thiển cận mà có thú vị, bạn thanh niên muốn làm thực nghiệp không nên bỏ phí thì giờ dẫu một phút đồng hồ cũng đừng khinh bỏ qua, ấy thực là cái quan kiện khẩn yếu vậy.
Gia Nam là người cự phú nước Mỹ có người hỏi diệu thuật làm giầu thế nào? Ông ta đáp: Mẹo làm giầu chẳng khó gì, chỉ tại gặp lúc khốn nạn mà có thái độ vui cười mới thành công được, bởi vì người sử trong hoàn cảnh cũng như cái đồ máy, máy có dầu vận chuyển thời mới không chê ngại mà vận đi khoái hoạt, người ta không khoai hoạt thời làm việc hẳng không nhanh nhẩu, thường có một việc chỉ một ngày làm song được mà để lôi thôi đến hai ba ngày còn làm giầu thế nào được, vả lại người khoái hoạt lúc nào cũng có dáng cười, xuân phong mãi diện, thời tự có thói linh lợi hoạt bát, nếu coi người mình dáng buồn dầu chẳng nói câu gì, hình như trong bụng giận ai, thời người ta trông thấy đã chán ghét rồi, còn làm được việc gì nữa; cho nên người muốn thành công thời phải linh lợi, muốn cho linh lợi trước phải khoái hoạt, muốn cho khoái hoạt trước phải học. Gia Nam lại bảo rằng: Một lần thương khóc tổn mất 600$, một lần vui cười thêm được 1460$, câu ấy cũng kỳ mà có lý thú.
Người ta ở trong xã hội tiếp súc các sự vật biết bao nhiêu phải có thiên tài có học thức, nhưng có tài cũng phải có học, đời có người tự khoe là thiên tài, mà trong thân không làm được việc gì, thế không phải là tài làm nhầm người, cũng không phải là đời không biết dùng tài, chỉ tại rằng tài còn tàn khuyết không toàn chẳng có thông thường học thức mà thôi.
Này phạn vi học thức nhiều lắm, phàm những điều có quan hệ đến chức vị cùng với sự vật tiếp súc ở quanh mình, vô luận việc nhớn việc nhỏ đều phải chú ý cho biết mới được, cổ ngữ rằng: mắt trông bốn, tai nghe tám, phương ấy thực là cái phương tiện pháp muốn để tu luyện thường thức vậy.
Người ta đối với chức nghiệp của mình vẫn là nên an phận hết sức, nhưng cũng phải cố chí tiến thủ mà không nên tự hạn, đời cũng có người thủ phận chỉ cầu giữ lấy địa vị hiện tại không mong phát đạt nhớn hơn lên, thế là người trí lực bạc nhược không quý gì đâu. Ôi ! thế giới tiến hóa vô cùng thì người ta tiến thủ cũng phải vô cùng, nếu không gắng sức tiến thủ thời không thành được sự nghiệp lớn thì quốc gia xã hội không bao giờ chấn khởi lên được, có lâm thực nghiệp thời mới có của, của là mẹ đẻ ra muôn việc thực nghiệp so mấy nhà chính trị nhà giáo dục rất là trọng yếu, thế giới bây giờ sở dĩ có vật chất văn minh tức là bởi cái lòng tiến thủ chứa chan ra mà được thế, cho nên cái bụng hăm hở cầu giầu cũng không phải là đê tiện, mà cái người chính đáng làm giầu cũn không nên khinh bỉ, tục ngữ nước Mỹ có câu rằng: Dùng cái chìa khóa cần mẫn mở cái kho vàng cô vàn thì làm giầu cũng dễ, anh em trong thương giới ta có chí làm giầu hay không, tiến thủ thực là một vị phúc tinh ở trong thương trường vậy.
Cổ thi rằng: Ngật đắt khổ trung khổ, phương vi nhân thượng nhân, nghĩa là chịu được cái khổ trong khổ mới là bực người trên người, những người chịu lao công lực mình, lao tâm tư mình, khổ thân thể mình, khổ tinh thần mình, không sợ gian nan thường giữ cái bụng lao khổn là nghĩ rằng có lao khổ thì mấy có hi vọng có thành công, cho nên chân bùn tay lấm cố gắng không thôi mà vẫn có cái sung xướng vô hạn, thế mà có một bọ thanh niên thường thường mê ăn mê chơi, nửa ngày chửa giậy, mà trong bụng cứ để một cái mộng tưởng rằng không phải lao khổ mà được ấy cũng như người ốm kiêng kể gốc bệnh chỉ đến thầy lang cân thuốc hay chữa cho chóng khỏi, rồi đến nỗi bịnh văn không trừ, mòn mỏi đến chết, chẳng nên tiếc ư, người chỉ tại hay chịu lao khổ sinh tình lực, sinh can đảm, sinh tín dụng, sinh cơ hội kết quả tốt mà thành công, không thế thời dẫu thiên ngôn vạn ngữ nói hết cái mẹo thành công cũng chỉ như bọt nước tan mất mà không được ích gì đâu.
Tài cán người ta có hai giống một là học vấn, hai là thực hành, tài cán học vấn như nông lâm, kinh tế, sổ sách, công nghệ, trong nhà trường ngày thường giậy học, tài cán thực hành thời khác thế, như đã nhận một chức nghiệp gì thì phải nghiên cứu những sự vụ gì có quan thiết đến chức nghiệp mình, tường sét tình hình cho kỹ, không những lúc ở nhà làm việc phải hết nghĩa vụ, dẫu đến lúc lui về nhà tư cũng hết sức lo lường để cầu biết được nhẽ mới, như thế thời sự vụ lâm đến trước mắt, ứng phó tự nhiên không khó, nay nhân sĩ các nước Âu mỹ có người đã tốt nghiệp ở trường đại học, mà chịu làm dịch phu ở công xưởng, đấy là người ta biết rằng tài cán thực hành nên quý, cho nên không dám không dám tự tôn tự đại, chịu ở dưới người để cầu thêm tiến cái tài kinh nghiệm của mình. Nếu tốt nghiệp mà cứ khinh bỉ việc nhỏ không chịu tập làm, lúc làm việc thì biếng nhác, lúc về nghỉ chỉ hút thuốc chơi bời thế là người tự phụ, tự khí, bọn thanh niên nên lấy làm gương mà dán đi.
Trong đám thương giới cần nhất là sự tín dụng, nếu không được người tín dụng, thời chẳng làm nên được việc gì, muốn cho tín dụng trước hết phải mặt mũi nghiêm trang, không có thói láo lấc cũng không có giáng buồn giầu, thì người ta trông thấy tự nhiên yêu quý, người đã yêu quý thì dần dần được tín dụng, sau này còn phải lưu tâm cẩn thận đừng để việc gì thất tín, phỏng như trong lúc cùng túng không phải là việc vạn bất đắt dĩ, thời không nên vay mượn một tí gì, bởi vì đã vay mượn của người thời mất quyền tự do của mình, như có vay mượn thời cũng nói rõ kỳ hạn, trù liệu đến hạn phải giả cho xong, đừng có sai hạn mà thất tín, sưa xó ông Tưởng Diện Hiên là con nhà nghèo ở nước Tầu sang Nam dương vào làm công ở nhà đại công xưởng, hình giáng trang trọng khoan nhàn vui vẻ, người chủ xưởng là Chí Hòa cực kỳ thân yêu, cho làm cai xưởng lại giúp cho vốn to để ra lập nghiệp một mình, tự đấy tín dùng càng ngày càng bền sự nghiệp càng ngày càng nhớn, đi lại với nhà băng, nước Hà Lan, muốn lấy bao nhiêu cũng được, thậm chí nhà bằng được một câu chuyện hay được một mảnh giấy của Diện Hiên cũng lấy làm hân hạnh giao cho ức triệu cung khoản mà không phải ký nhận gì cả thành ra một nhà đại phú; xem thế thì biết mình có lực lưỡng bản lĩnh một phần, thì người ta tin dùng một phần, mình có đại lực lượng đại bản lĩnh nghìn muôn phần thời người ta tự nhiên tin dùng mình nghìn muôn phần, nếu không rộng năng lực của mình mà cầu cho người ta tin dùng thời chỉ là cái mơ tưởng hão mà thôi.
Người ta ở trong xã hội một mình mà muốn làm cả mọi nghề thế hẳn không được, nên phải chọn một nghề làm để dưỡng thân, các cách chọn nghề, thứ nhất là tùy tính mình thích nghề gì thì làm nghề ấy, nếu tính mình với nghề mình không hợp nhau mà làm ép, thời nghề nghiệp dẫu tốt mà cũng khó thành. Cũng có người tính không thích nghề ấy bất đắc dĩ mà phải làm đến sao chịu khó làm mãi, rồi sau tập quen thành ra tự nhiên cũng hay thành nghề, nhưng không được mấy người như thế, vả lại nhân cái tính không thích thời thành công cũng chậm. Ông Mạnh Tử rằng : Trạch thuận bất khả bất thuận, cho nên người muốn làm nghề gì phải cẩn thận xem nghề gì là hợp với mình rồi sẽ tập làm thời mới chóng mới khéo mà làm lâu được.
Người ta làm việc phải có hai bụng đặc biệt, một là bụng trách nhậm hai là bụng hứng thú, có bụng trách nhậm thời mới biết là việc của mình mà phải làm, không làm không được, có bụng hứng thú thời mới biết việc ấy là vui làm mãi không chán, nếu có bụng trách nhậm mà không có bụng hứng thú, thời dẫu miễn cưỡng mà làm, lâu cũng sinh chán mà bỏ mất. Người ta phải thường thường giữ cả hai bụng ấy mới được.
Người ta ở đời mà không làm việc thời là phế nhân, cho nên ai cũng phải làm việc, việc gì ngày nay phải làm thời trong một ngày phải làm song ngay đi, việc giif giờ này phải làm thời trong một giờ làm song ngay đi, thế mới khỏi phải chứa chấp chậm chễ, nếu để lôi thôi thời giờ, thời cái ma thất bại lập tức theo đến bên mình ngay.
Thế gian có những bọn người hèn hạ sở dĩ không lập được sự nghiệp, chỉ vì biếng nhác thôi, bảo rằng bây giờ chẳng làm hãy để lát nữa, hôm nay chẳng làm hãy để ngày mai, sao không nghĩ rằng việc gì đã là chức phận của mình thế tất phải làm song mới được, dẫu để lôi thôi, sau có khỏi phải làm đâu, bất nhược phấn chấn tinh thần, gập việc gì cũng tức tốc làm đi, lâu ngày luyện tập thời cái tính lười biếng dần dần bỏ hết được.
Thế gian có người tầm thường, nghĩ rằng việc này dễ, làm tất có thú, thời ta làm trước, việc kia khó làm rất sinh chán thời ta làm sau, bố chí như thế tức là cái gốc sinh ra dần dần sợ việc, không phải là thói tập quen tốt đâu, phải biết rằng việc gì đã là chức phận mình, dẫu để sau cũng phải làm, tinh lực người ta dùng càng lâu thời càng mỏi mệt, càng sợ phiền toái mà lại để việc khó về sau, thời thường đến bỏ việc, cũng có người đương làm việc này dở dang, thốt nhiên mỏi mệt hoặc có việc khác tiếp đến thôi không làm vội, nghỉ đi mấy giờ rồi mới lại làm, thế thời tất phải chỉnh đốn lại một phen, bao nhiêu công phu lúc trước hư phí mất cả, thật là khá tiết, này các người khéo biện việc mà thành công chẳng những không sợ lắm việc mà lại cho lắm việc là hạnh phúc, cho nên lắm việc nhiều khó đến cực điểm mà vẫn ứng phó dễ như không. Thế là bởi người ta cần mẫn là một, biết cách biện việc là hai, như gập hai việc, ba việc, bốn việc, một lúc thời trù liệu việc gì khó, việc gì dễ, việc gì khó thì làm trước, việc gì dễ thì làm sau, hoặc có việc lớn một ngày không làm xong được thời cũng sếp đặt cho có đoạn lạc, rồi mới lại làm việc khác, cho nên dẫu việc nhiều đến đâu việc khó đến đâu, cũng đều sử chí thung dung mà thành công được cả.
Lúc đương làm việc, đồ đạc bầy ra rối rít trước mặt sau lưng, làm xong rồi cứ nhân tiện vứt bậy bạ thời lúc sau dùng đến phải mất công tìm tòi hư phí thì giờ, rất là không tiện, tất phải thu xếp thanh thỏa, đồ gì để ở chỗ nào cho có định sở, có chật tự, không đến lộn xộn, trong bụng rành rọt nhớ cả, muốn lấy được ngay, dẫu khi tối đêm cũng dờ tay tìm được, ngày nào cũng cứ như thế, lâu lâu tập quen, đồ vật để đâu vào đấy chỉnh chỉnh tề tề, thế mới là người có tư cách biện được việc.
Một con hươu chạy ở trước mắt, chúng nhân cùng đuổi theo, tất là người nhanh chân hơn mới bắt được, cũng như cơ hội hiện ra trước mặt, chúng nhân cùng tranh nhau tất là người mẫn tiệp hơn mới nắm được, đại phàm những người chậm chạp chỉ bởi tại tinh lực hoán tán, không chịu cố gắng thì trong bụng không được hoạt bát, làm việc gì cũng biếng nhác lôi thôi, không bao giờ thành sự được, duy những người mẫn tiệp mỗi khi làm việc thời đem hết tinh thần khí lực trong mình chuyên chủ vào đó, cho nên công việc chớp mặt xong ngay, không bê chệ một tý nào, ai cũng phục là tài biện sự, xem thế thì một người chậm chạp là bởi lười thây cố sác, một người mẫn tiệp là bởi cố công cùng sức, người kinh thương nên lấy đó làm gương.
Mỗi ngày sáng sớm đem hết công việc trong một ngày, trù liệu một phen, cho trong bụng xếp đặt sẵn rồi, thời làm việc vừa chóng vừa dễ, đến tối thời tinh thần đã mệt, phóng tâm giải tri khả dĩ tận tình, nghỉ ngơi một giấc êm đềm, không lại nghĩ việc ban ngày chi nữa, thế thời tinh thần thú xướng biết là chừng nào, còn như người lúc vô sự thời chơi bời qua ngày, lúc có sự thời nghĩ quanh nghĩ quẩn, hư phí não lực mà không ích gì, những người ấy tinh thần hẳn không được khoái hoạt, không gì bằng lúc biện sự thời có trật tự nhất định, thời gian nhất định, chuyên tâm cố chí làm xong những việc nhất định chức phận nên làm, còn những việc tế toái phiền tạp, nhất thiết không để bận lòng, đến tối thời trong bụng như không, chẳng mơ tưởng chi đến nữa, hoặc là khi làm việc ấy quanh quẩn mệt quá, hãy tạm đổi làm việc khác, thời tinh thần cũng nhân đổi khác mà bớt mệt, thế là cái phép di dưỡng tinh thần vậy.
Cửa hàng mượn người làm việc, cậy người tiến dẫn còn phải nể nang dùng ép, không bằng đăng vào nhật trình chiêu đến, thời tùy ý mình khảo xét kén chọn, thế là tiện hơn, hoặc là hẹn với các trường học, tìm những người học ở trường thương nghiệp hay những người học ở trường chức nghiệp, thời trước đã học tập bây giờ thực hành, năm ba tháng quen công quen việc thành người giỏi ngay. Âu, Mỹ dùng người thường làm như thế.
Cửa hàng mỗi người giữ một việc, một là giữ được truyện bí mật, hai là việc ít thời dễ làm, ba là chuyên chủ từng việc thời không có chuyện tân công, không có đổ lỗi quanh, bốn là người nọ dữ người kia không có thông đồng tác tệ, năm là nhầm lỗi thì biết được ngay, sấu là việc ít thời giẫu người mới đến cũng dễ tập làm, bẩy là chuyên giữ một việc thời cải lương cũng dễ, tám là việc ít thời dễ tập dẫu người ít tuổi cũng làm được.
Người làm việc mà dùng lâu năm quá thời nội dung không ai xét đến, tất sinh tệ hại, hoặc là món nọ dịch món kia, hoặc là tiêu thất công khoản đến lúc biết thời hại nhiều rồi, vả lại làm mãi một việc thời sinh chán, tinh thần cũng không được khoái hoạt, vả lại không đổi làm việc khác thời tài cán thiên về một nghề, sau không kiêm biện được nghề gì nữa, nên lập hạn một năm hay ba năm thay dùng người khác, thời người ấy dẫu sinh tệ mà cũng chưa đến hại lắm vả lại ba năm thay người thời người ta đã biết việc nọ lại biết việc kia, trong hiệu nhiều người lịch luyện, như có việc bất kỳ mà dùng người thời cũng có người thay vào ngay, thế là người làm công có lợi, mà chủ nhà cũng lợi.
Hiệu buôn mượn người tiền công bao nhiêu, mấy năm một lần tăng lương, thế đã đành rồi, nhưng muốn cho người làm công gắng sức lên, có lệ thưởng tiền hoa hồng, thưởng ít thưởng nhiều tùy người mà định, những lúc thưởng tiền hoa hồng nên bí mật, cho từng người một, không nên công bố, nếu để ai ai cũng biết cả thời người được nhiều vị tất cảm ơn mà người được ít có bụng sinh oán, chủ hiệu cũng nên biết thế.
Chủ hiệu trách người làm công có lỗi nên gọi riêng vào một chỗ mắng trách răn bảo để cho nó khỏi xấu hổ với anh em, thời ngày sau nó biết lỗi mà chừa đi, nếu trách phạt ở chỗ công chúng, ngộ phải đứa cương cường, nhân thẹn thành dận mà cãi lại quá lời, thời thể diện chủ nhà ra thế nào, mà ngày sau uy nghiêm cũng kém đi mất. Các hiệu buôn bên Âu Mỹ làm cho người trong hiệu tình nghĩa liên lạc với nhau, có lệ đóng mỗi tháng mấy hào mấy su, bầu cán viên, lập hội sở, mỗi năm mấy kỳ đến hội, hoặc hát tuồng, hoặc diễn thuyết, hoặc đá bóng, hoặc ra ngoài đồng thể thao, để cho người trong hiệu đi lại thân mật kết thành đoàn thể với nhau, thật là một cách chơi phong nhã rất tốt.
Nhà buôn Âu mỹ lại có lệ bổng dưỡng lão, hễ người nào làm công trong hiệu được mười lăm năm dĩ thượng, đến lúc già yếu xin thôi, thời xem tuổi từ 56 tuổi đến 60, 65 cứ chiếu lương lúc làm công, hoặc ba phần cho một phần hoặc ba phần cho hai phần, càng già càng cấp cho nhiều, đến mất mới thôi, cũng như lệ lương hưu trí của chính phủ, lệ ấy càng là trung hậu.
[1] đg. Giữ giấy tờ của một cấp chính quyền cấp cho làm bằng.