Hộ tịch | hộ tịch việt nam | luật hộ tịch | cấp bản sao trích lục hộ tịch | tư pháp hộ tịch | cải chính hộ tịch | đăng ký hộ tịch trực tuyến | bài giảng luật hộ tịch | công chức tư pháp hộ tịch | thủ tục cải chính hộ tịch | thay đổi hộ tịch | ôn thi công chức tư pháp hộ tịch
Mỗi người phải có căn cước minh bạch để cho biết rõ người ấy là người ấy, khỏi nhầm lẫn với người khác, thì việc cai trị trong nước mới khỏi những sự ngăn trở và việc giao dịch của người này với người khác mới có chuẩn đích chắc chắn và mới có cơ tiến hóa được.
Muốn có căn cước rõ ràng, tất phải có sổ sinh, sổ tử và sổ giá thú[1]; các sổ ấy gọi là hộ tịch.
Các thứ sổ hộ tịch
Mỗi xã phải có ba thứ sổ, sổ sinh, sổ tử và sổ giá thú.
Các thứ sổ sẽ do quan công sứ[2] bản tỉnh ký tên và ghi số hiệu từng tờ. Ở tờ đầu và tờ cuối lại có đóng dấu riêng. Làm như vậy, cốt để giữ người ta khỏi sé, hoặc thay đổi các tờ trong sổ, nghĩa là cốt để phòng giữ các việc gian trá về sau.
Mỗi tờ trong mỗi thứ sổ phải để trống bên cạnh một khoảng cho vừa đủ để phòng khi có điền bổ hoặc cải chính.
Mỗi thứ sổ phải lập thành từng hai bản, một bản để lại dân, còn một bản thì để đến cuối năm đem ký tồn ở phủ huyện nha.
Nhà làm luật định như vậy là có hai điều ích lợi rất lớn: 1. Các thứ sổ có hai bản ký tồn hai nơi như vậy, thì sự giữ gìn càng thêm được chắc chắn vững vàng. 2. Có hai chỗ ký tồn sổ sách thì sự kê cứu càng thêm dễ dàng và giản tiện cho người đương sự.
Các sổ hộ tịch không nên giữ kín, nên để cho mọi người được quyền tham khảo, thì mới đạt được mục đích của hộ tịch. Nếu ta muốn kết kế ước với người nào thì ta cần phải biết người ấy bao nhiêu tuổi, vì người ấy có trưởng thành thì mới có năng lực kết ước được.
Bởi thế cho nên điều thứ 44 trong luật có nói: Hễ người đương sự có lời xin, thì người hộ lại[3] hay quan huyện có thể phát cho bản trích lục về chứng thư, hay chứng chỉ, chứng nhận các việc sinh tử giá thú.
Xem vậy, thì người hộ lại cũng như quan huyện, cũng có quyền được phát chứng chỉ hay trích lục. Người quan hệ tùy sự tiện lợi của người ấy, muốn xin ai cũng được. Nhưng muốn xin chứng chỉ hay trích lục về chứng thư bản niên, thì tất nhiên phải xin người hộ lại, vì người hộ lại hiện còn giữ cả hai bản sổ.
Dẫu trong luật không nói đến, nhưng tưởng khi người hộ lại phát chứng chỏ hay trích lục cho người ta, thì tờ chứng chỉ hay trích lục ấy phải có quan trên nhận thực cho mới được. Sự nhận thực ấy, cốt để chứng nhận hai điều cốt yếu như sau đây:
- Chữ ký ở dưới tờ trích lục hay chứng chỉ, không phải là giả mạo;
- Người ký tên ở dưới ấy là người có quyền được phát tờ chứng chỉ hay trích lục ấy.
Sự ghi chép
Người hộ lại chỉ được ghi vào hộ tịch những việc mà pháp luật bắt khai, không được biên chép những việc vô ích hay là làm mất thể diện của người đương sự.
Điều thứ 42 trong luật tây có nói: Những chứng thư khai sinh tử giá thú phải biên liền nhau, không được bỏ quãng, không được viết tắt và những ngày tháng không được biên bằng chữ số. Điều thứ 38 lại nói: Viên hộ lại khi đã đăng vào sổ xong rồi, thi phải đọc cho người đương sự nghe.
Sau khi đã đăng ký rồi, đã đọc cho người đương sự nghe rồi, thì viên hộ lại phải ký tên và bảo người đương sự cũng ký tên vào sổ.
Sự tin dùng của hộ tịch
Điều thứ 41 nói: Các sự ghi chép trong sổ hộ tịch, nếu không ai kiện rằng giả mạo, thì vẫn có hiệu lực tin dùng. Cách kiện giả mạo rất khó khăn và nguy hiểm cho người dùng nghĩa là người đứng kiện, song vì cách ấy thuộc về tố tụng pháp, nên ở đây không cần bàn đến.
Phàm những sự gì thuộc về chức trách của người hộ lại thì có hiệu lực tin dùng cho đến khi kiện rằng giả mạo; còn những sự gì thuộc về phận sự của người đứng khai hoặc người làm chứng, thì chỉ có hiệu lực tin dùng cho đến khi có tang chứng trái lại mà thôi. Cách tìm lấy tang chứng trái lại cũng thuộc về tố tụng pháp nên không bàn đến.
Ví có người kiện rằng người đứng khai đã thực khai với hộ lại, mà hộ lại cố ý biến cải đi, thì phải dùng đến cách giả mạo; còn như người nào muốn kiện rằng chính người đứng khai đã man khai, thì chỉ cần phải tìm thấy tang chứng trái lại mà thôi.
Xem như vậy thì người hộ lại được nhà nước có lòng tin dùng lắm. Phàm người hộ lại, muốn cho xứng đáng cái lòng tin dùng ấy và khỏi mắc những tội sẽ kể sau, thì phải hết sức mà làm trọn cái nghĩa vụ của mình.
Những trường hợp được lấy chứng chỉ hay nhời khai người làm chứng làm bằng.
Bốn trường hợp ấy là: 1. Những sự sinh tử giá thú phát sinh ra trước khi công bố hộ luật. 2. Những sự sinh tử giá thú phát sinh ra trước khi lập hộ tịch đúng phép. 3. Những khi sổ sách bị mất. 4. Những khi sổ sách bị hủy hoại.
Dẫu trong luật không nói đến, nhưng thiết tưởng gặp những trường hợp ấy, người đương sự trước hết phải lấy đủ chứng cứ rằng không có hộ tịch đúng phép, hoặc mất hộ tịch, nhiên hậu mới có thể chiểu điều 42 và 43 mà lấy hoặc giấy má trong gia tộc, hoặc lời khai của người làm chứng, hoặc giấy tờ chứng chỉ của quan lại có quyền phát cho để chứng nhận những việc sinh tử giá thú.
Hình phạt những người không tuân thể lệ thuộc về hộ tịch.
Đặt ra thể lệ về sự biên chép, giữ gìn sổ sách cũng không đủ, cần phải trông nom đến sự chấp hành những thể lệ ấy cho có thành hiệu.
Thuộc về người phải đứng khai, thì điều 35 khoản 1 nói: người nào luật bắt đứng khai sinh tử giá thú, mà không có duyên cớ chính đáng, hoặc bỏ quên hoặc lười biếng không khai, thì phải phạt một khoản trong điều thứ 222 luật hình – nghĩa là tùy tình lý nặng nhẹ mà phạt giam từ một ngày đến mười tháng, hoặc phạt bạc từ 0,20 đến 50 $.
Điều 35 khoản 2 nói: Người nào dụng ý tự mình gian khai, hoặc để cho người ta gian khai với hộ lại, hay là có tri tình mà cố ý nói với hộ lại những tin gian trá hoặc bất thực thì cũng sẽ bị nghĩ xử theo những khoản phạt như trên.
Thuộc về người hộ lại, thì điều 36 khoản 2 nói: Nếu người hộ lại lười biếng trong sự giữ gìn sổ sách hay là biên chép không cẩn thận, hay là tự mình không ký tên hay là không bảo người đương sự ký tên, hay là lười không biên nhừng sự người ta khai với mình [mà luật pháp bắt phải khai] thì sẽ phải chiểu điều 222 nói trên mà chịu tội.
Khoản 1 nói: Nếu người hộ lại có ý hủy hoại, biến cải, bôi xộn, hay là cho phép người ta hủy hoại, biến cải, bôi xóa sổ hộ tịch, thì sẽ phải phạt những tội trong khoản 2 điều 23 trong luật hình – nghĩa là phải phạt giam từ một năm đến năm năm.
[1] Nói chung về việc gả chồng cưới vợ.
[2] Chức quan cai-trị người Pháp đứng đầu các tỉnh ở Bắc-kỳ và Trung-kỳ.
[3] Người trông nom hộ tịch và chứng nhận việc khai sinh, khai tử, giá thú trong làng thời Pháp thuộc.